Lý Công Uẩn (974 - 1028), người làng Cổ Pháp, tức làng Đình Bảng, phủ Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh. Ông là vị vua sáng nghiệp của nhà Lý và cũng là người sáng lập kinh đô Thăng Long - một trung tâm chính trị, kinh tế, văn hoá trường tồn của đất nước.Tượng đài Lý Thái Tổ - Bên Hồ Gươm Hà Nội
Tục truyền Lý Công Uẩn là một nhân tài được nuôi dưỡng từ cửa Phật. Số là bà mẹ ông người họ Phạm vốn không có chồng, nhân một lần đi lễ chùa Cổ Pháp về trông thấy vị long thần cười đùa với mình, rồi tự nhiên có thai. Đến kỳ sinh nở, bà đem con bỏ ở cửa chùa. Sư trụ trì chùa đó là Lý Khánh Văn nhặt đứa bé, ẵm vào chùa nuôi nấng và đặt tên là Lý Công Uẩn.
Công Uẩn khôi ngô, rắn rỏi và rất thông minh nên được “ông bố nuôi” hết lòng chăm sóc, dạy bảo. Mới sáu, bảy tuổi, Công Uẩn đã làu thông kinh sử nhưng phải cái hay tinh nghịch. Giai thoại kể lại rằng: Một hôm sư Khánh Văn sai Công Uẩn mang oản lên bệ thờ Hộ Pháp, cậu bé đã khoét ruột oản ăn trước. Đêm đến, Hộ Pháp báo mộng cho sư biết. Đến hôm sau, Khánh Văn trách mắng Công Uẩn. Cậu bé ức lắm, rồi lại viết vào sau lưng tượng mấy chữ “Đày ba ngàn dặm”. Đêm hôm đó, sư lại mộng thấy Hộ Pháp đến ngỏ lời từ biệt rằng: “Hoàng đế đày tôi đi xa, xin có lời chào ông”. Sáng hôm sau, sư lên xem pho tượng Hộ Pháp quả thấy mấy chữ “Đày ba ngàn dặm” ở sau lưng. Sư bèn sai chú tiểu lấy nước rửa bỏ mấy chữ ấy mà rửa mãi không sạch. Đến lúc bảo Công Uẩn làm thì cậu bé chỉ xoa xoa mấy cái là sạch ngay. Sư hết sức kinh ngạc. Nhân thấy Công Uẩn đã hơi lớn, lại nghịch ngợm quá, Khánh Văn liền gửi Công Uẩn sang học với sư Vạn Hạnh bên chùa Lục Tổ.
Vạn Hạnh là vị sư nổi tiếng hay chữ, học thông cả tam giáo lại có tài kinh luân. Nhưng ở đây, Công Uẩn cũng vẫn nghịch ngợm. Một hôm cậu bé mải chơi trốn học bị Vạn Hạnh trói, để cả đêm ở ngoài Tam Quan. Canh khuya muỗi đốt không ngủ được, chân lại bị trói gò bó, Công Uẩn tức cảnh ngâm một bài thơ rằng:
Thiên vi khân chẩm địa vi chiên,
Nhật nguyệt đồng song dối ngã miên.
Dạ thâm bất cảm trùng thân túc,
Chỉ khủng sơn hà xã tắc diên.
(Trời làm màn gối, đất làm mền,
Trăng gió cùng ta một giấc yên.
Đêm khuya chẳng dám dang chân duỗi,
Chỉ sợ giang sơn phải đảo điên).
Sư Vạn Hạnh nghe thơ giật mình, cho là Công Uẩn có chí khí to lớn khác thường. Từ đó sư càng cố công dạy bảo cho Công Uẩn nên người hữu ích. Về sau, nhờ sư Vạn Hạnh là vị quân sư “túc trí đa mưu”, Công Uẩn được đưa vào làm quan trong triều, dần dần thăng đến chức tả thân vệ Điện tiền Chỉ huy sứ, là một chức quan cận thần to lúc bấy giờ.
Đến khi Lê Ngoạ Triều chết (1009), nhận thấy nhà Tiền Lê đã hết vai trò, lòng người lại đang căm giận triều đại này do những hành động bạo ngược của Ngoạ Triều, sư Vạn Hạnh bèn cùng các quan trong triều suy tôn Lý Công Uẩn lên làm vua, tức là vua Lý Thái Tổ.
Thời Lý cũng như đầu thời Trần, việc các nhà sư được coi trọng và được tham dự triều chính là một hiện thực lịch sử. Vào thời đại ấy các nhà sư là lực lượng trí thức đông đảo, có trình độ học vấn uyên bác và có nhiệt tình xây dựng đất nước. Như vậy thì một cậu bé nhà nghèo không có cha như Lý Công Uẩn được các nhà sư đạo cao đức trọng như Lý Khánh Văn, Vạn Hạnh đỡ đầu và đào tạo thành người có văn hoá cao, có tài trị nước là chuyện dễ hiểu.
Việc làm đầu tiên của Lý Thái Tổ sau khi lên ngôi là dời quốc đô từ Hoa Lư (Ninh Bình) ra thành Đại La (tháng 7 năm Canh Tuất - 1010). Kinh đô mới được đặt tên là Thăng Long. Việc dời đô có một ý nghĩa lịch sử cực kỳ trọng đại. Nó đánh dấu sự phát triển của xã hội Việt Nam đã đến lúc đòi hỏi một trung tâm chính trị, kinh tế và văn hoá có một tầm rộng lớn hơn khu vực Hoa Lư nhỏ hẹp. Bởi vì Thăng Long là nơi:
“Đất này bền vững dài lâu
Thế như “hổ phục, rồng chầu” uy nghi
Xứng danh được chọn kinh kỳ
Ngoại giao, nội trị thích nghi mọi đường
Núi non, sông nước, phố phường
Đất này trọng yếu bốn phương tụ về”