Vũ trụ luôn chống lại chúng ta? Sợ đi làm muộn, bạn vội vàng lôi ngăn kéo nhưng không kiếm được hai chiếc tất cùng đôi. Trong nhà bếp, lát bánh mỳ trượt khỏi đĩa xuống sàn – đáng buồn nhất là mặt phết bơ úp xuống đất. Tới bến xe, bạn xếp ở hàng ít người nhất để cuối cùng nhận ra rằng, hàng bên cạnh đã được mua vé trong khi vị khách đứng trước bạn vẫn lúng túng xếp đặt một chuyến đi…
Đó chỉ là ngẫu nhiên hay đó là cách vận hành của vũ trụ? Có thể ngạc nhiên nhưng bạn cần làm quen với một sự thật không vui là, vũ trụ luôn chống lại con người. Quan niệm này đã được biết từ lâu, thậm chí có hẳn tên gọi là Định luật Murphy: Nếu một việc có thể diễn tiến xấu, nó sẽ diễn tiến đúng như thế. Ở một số nước phương Đông, cũng thấy quan niệm tương tự, dù cách diễn giải hơi khác: phúc bất trùng lai, họa vô đơn chí.
Nhưng không phải đến Murphy người ta mới nhận ra tính bướng bỉnh của các sự biến. Nhiều phiên bản của định luật đã có từ những thế kỷ trước. Chẳng hạn, nó được nhà thơ Scotland Robert Burns phát biểu từ 1786: “Tôi chưa từng có một mẩu bánh/Đủ dài và đủ lớn/Nhưng khi rơi xuống nền cát/Mặt phết bơ luôn rơi xuống trước”.
“Whatever can go wrong will go wrong, and at the worst possible time, in the worst possible way” ( Bất cứ cái gì có thể sai thì nó sẽ sai ,và xảy ra tại thời điểm xấu nhất có thể ,trong tình huống tồi tệ nhất có thể )
chuyên gia tên lửa Edward A. Murphy phát biểu như thế nửa thế kỷ trước. Giờ đây, lịch sử hàng không lại ghi nhận một trường hợp nữa, thu hẹp định luật Murphy: “Nếu bộ phận có thể bị lắp ngược, nó sẽ bị lắp ngược”.
Minh chứng mới nhất của định luật này là tai nạn khó hiểu của tàu thăm dò Genesis, khi con tàu – mang theo các mẫu gió mặt trời, dự kiến cung cấp bằng chứng về nguồn gốc của mặt trời và toàn bộ thái dương hệ – trở về trái đất. Dù của Genesis đã không mở được trên sa mạc Utah , và con tàu hình cái đĩa này đâm sầm xuống mặt đất với tất cả tốc độ của nó.
Một nhóm điều tra nay xác định rằng các sensor giảm tốc đã bị lắp ngược! Bộ phận điều khiển tự động trên con tàu không nhận được tín hiệu báo rằng nó đã chạm vào khí quyển và mặt đất cứng rắn đang nằm ngay trên đầu.
Tai nạn của Genesis lặp lại cùng kiểu sai lầm như nửa thế kỷ trước. Sự việc này gợi lại thông báo của NASA vào năm 1999, rằng tàu thăm dò sao Hỏa Mars Climate Orbiter đã đâm xuống hành tinh này chỉ vì các công nhân thiết kế lẫn lộn giữa đơn vị đo lường hệ mét và các đơn vị đo của Anh. Câu chuyện quả là một sai lầm lớn, và có các yếu tố sự thật trong đó, nhưng nó đã bị che đậy phần nào và chuyển hướng sang vấn đề khác.
Không chỉ có vụ việc của tàu Mars Climate Orbiter, đối tác sản xuất tàu vũ trụ của NASA – hãng thiết kế Lockheed Martin – còn tiếp tục mắc phải một loạt sai lầm, mà xét một cách muộn mằn, thì tất cả đều có thể dự đoán và tránh được.
Tháng 9/2003, một vệ tinh quan sát trị giá một phần tư tỷ đôla đã bị hư hại nghiêm trọng trong một nhà chứa khi nó trượt đi do không được chốt vào khung đỡ.
Năm 1998, chiếc tên lửa LockMart Titan 4 mang theo vệ tinh do thám LockMart trị giá một tỷ đôla đã nổ tung không lâu sau khi cất cánh khỏi căn cứ Canaveral, California, do dây điện bị sờn mà không được điều tra. Còn trong năm sau đó, vệ tinh LockMart Milstar 4 đắt tiền được phóng lên một quỹ đạo vô ích, do người ta đã đưa những phép toán sai lầm vào hệ thống dẫn đường của tên lửa đẩy.
Song LockMart hầu như không phải là cơ quan vũ trụ duy nhất có những sai lầm kiểu này. Bất cứ cuộc điều tra nào về những thiếu sót của con người dẫn đến các hậu quả khủng khiếp như vậy cũng sẽ tìm thấy vô số trường hợp. Trong trường hợp của tàu Genesis, mối đe dọa từ dụng cụ đo gia tốc đáng lý đã không thể bị NASA bỏ qua, bởi rất nhiều sai lầm tương tự đã xảy ra trên những tàu thăm dò khác trong vòng chưa đầy một thập kỷ trước đó – song may mắn thay chưa gây ra hậu quả thảm khốc.
Trong khi hầu hết mọi người thừa nhận quy luật này thì giới khoa học thường xem đó là kết quả của “ký ức chọn lọc”, do những sự việc đáng buồn luôn ăn sâu trong tâm trí. Tuy nhiên, một số nhà khoa học, như Robert Matthews của Đại học Aston tại Birmingham (Anh), đã dùng kiến thức của nhiều ngành khoa học để khám phá và nhận thấy, nhiều ví dụ nổi tiếng của định luật Murphy là có cơ sở.
Những nghiên cứu của Matthews dẫn tới sự ngạc nhiên thực sự: có một mối liên hệ sâu xa giữa “hành động” của lát bánh mỳ và các hằng số cơ bản của vũ trụ. Rõ ràng là mặt phết bơ của lát bánh mỳ sẽ không úp đất nếu chiếc bàn đủ cao (để lát bánh quay trọn một vòng). Nhưng tại sao bàn không đủ cao? Vì nó phải phù hợp với chiều cao con người. Vậy tại sao chúng ta lại có chiều cao đang có? Giáo sư vật lý thiên văn William H. Press của Đại học Harvard chỉ ra rằng, chúng ta là loài động vật có xương sống đứng bằng hai chân nên rất dễ ngã. Nếu quá cao, chúng ta sẽ bị chấn thương sọ não mỗi khi ngã. Và loài người sẽ diệt vong vì một nguyên nhân khá tầm thường là bị ngã! Để tránh thảm họa tuyệt chủng đó, chúng ta không được cao quá một giới hạn nào đó, và giới hạn chiều cao con người được quy định bằng độ lớn tương đối giữa các liên kết hóa học và vật lý của hộp sọ đối với lực hấp dẫn của trái đất.
Đến lượt mình, các liên kết của hộp sọ lại là kết quả của các hằng số cơ bản khác, chẳng hạn điện tích của điện tử. Mà giá trị của mười mấy hằng số cơ bản trong vũ trụ thì được cố định tại thời điểm vũ trụ bùng nổ (Big Bang) 15 tỷ năm trước. Từ các giá trị đó, Matthews tính được rằng, chiều cao cực đại của con người chỉ vào khoảng 3 mét, thấp hơn nhiều giá trị cần thiết để mặt phết bơ của lát bánh mỳ không úp xuống đất. Nói một cách khoa học, mặt phết bơ úp xuống đất vì vũ trụ “mong muốn” như vậy!
Kết luận trên được đăng trên Tạp chí vật lý châu Âu và thu hút sự chú ý đặc biệt của công chúng.
Ví dụ điển hình là Quy luật bản đồ: “Nếu địa điểm bạn tìm có thể nằm ở những vị trí không thuận lợi trên bản đồ, nó sẽ nằm ở đó”. Căn nguyên của quy luật là sự kết hợp lý thú giữa xác suất và ảo giác quang học. Hãy giả định bản đồ hình vuông, khi đó “vùng Murphy” gồm các phần nằm ở rìa và phía dưới bản đồ, nơi hệ thống đường sá dẫn tới chúng phần lớn là bất tiện.
Hình học trực quan cho thấy, nếu độ rộng vùng Murphy chỉ bằng 1/10 độ rộng tấm bản đồ thì nó đã chiếm hơn phân nửa diện tích cả bản đồ. Như vậy, một điểm bất kỳ cũng có xác suất rơi vào vùng Murphy lớn hơn 50%. Ngoài ra là ảo giác quang học: cho dù vùng Murphy khá hẹp, ranh giới của nó được kẻ trên phần lớn tấm bản đồ, khiến ta tưởng nó chiếm một diện tích lớn.
Xác suất và lý thuyết tổ hợp giữ vai trò chìa khóa trong một quy luật Murphy khác: “Nếu tất có thể không cùng đôi, nó sẽ không cùng đôi”. Nếu ban đầu bạn có 10 đôi tất, sau một thời gian bạn mất một nửa, thì khả năng bạn có một ngăn kéo toàn tất cọc cạch nhiều gấp 4 lần khả năng bạn có hai chiếc cùng đôi. Chính vì vậy, khó tìm được một đôi tất hoàn chỉnh trong lúc vội đi làm là lẽ đương nhiên.
Lý thuyết xác suất cũng giải thích được Quy luật mang ô: “Mang ô khi có dự báo mưa khiến mưa ít xảy ra”. Với khả năng dự báo thời tiết đạt tới độ chính xác 80%, dường như việc mang ô theo lời khuyên của nha khí tượng sẽ đúng 4 trong số 5 trường hợp. Thế nhưng, lập luận có vẻ chính xác này lại tỏ ra không thích hợp với vùng hiếm mưa. Ở những nơi đó, 80% các dự báo mưa lại có kết quả là trời không mưa. Vì thế mà có chuyện vui về bà vợ vị giám đốc nha khí tượng với chiếc áo mưa luôn luôn mới (vì chẳng khi nào dùng): bà mang áo mưa khi chồng báo mưa (mà trời lại nắng) và để áo mưa ở nhà mỗi khi trời mưa!
Để quyết định có mang ô hay không, cần tính đến xác suất có mưa trong khoảng thời gian bạn đi đường (chẳng hạn 1 giờ đồng hồ). Nó có giá trị đủ nhỏ trên toàn thế giới. Ví dụ xác suất mưa là 0,1 có nghĩa là khả năng bạn không dính mưa lớn gấp 10 lần khả năng dính mưa. Trong trường hợp ấy, lý thuyết xác suất chỉ ra rằng, ngay cả tỷ lệ dự báo mưa chính xác tới 80%, thì khả năng mắc sai lầm của dự báo cũng nhiều gấp hai lần khả năng không mắc, khiến việc mang ô của bạn trở nên vô ích. Bản chất của vấn đề nằm ở chỗ, khả năng dự báo cao cũng chưa đủ để tiên lượng các sự biến ít xảy ra.
Đại úy Murphy có thể không hài lòng vì xu hướng tầm thường hóa các nguyên lý rất có giá trị của ông trong các kỹ thuật đòi hỏi sự an toàn tối cao. Tuy nhiên, nhiều nhà khoa học cho rằng, các phiên bản “bình dân” của quy luật này không hề thiếu sức sống và tiện ích.
Nói tóm lại rằng nội dung của quy luật này là chúng ta sợ cái gì thì cái đấy sẽ đến với chúng ta , mong muốn cái gì thì hầu như nhận dc cái ngược lại